0903.121.676 / 077.682.0693
0903.121.676 / 077.682.0693

CHỒNG VAY NỢ, VỢ CÓ PHẢI LIÊN ĐỚI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRẢ KHOẢN VAY ĐÓ KHÔNG?

 

Tình huống:

Ông Hải và bà Hằng kết hôn năm 2000; và có với nhau một đứa con chung (sinh năm 2003). Hai vợ chồng sống hòa thuận được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn do ông Hải nảy sinh tật xấu rượu chè, cờ bạc. Tháng 2/2010, ông Hải bỏ nhà đi, mặc cho bà Hằng phải một mình làm việc nuôi con lớn. Tháng 12/2020, ông Hải quay về nhà. Ông Hải còn khai đang nợ bà Tâm với số tiền là 100 triệu đồng (có giấy tờ xác nhận giao tiền với mỗi chữ ký của ông Hải vào tháng 10/2015). Theo ông Hải thì số tiền này ông vay làm ăn để kiếm tiền gửi về cho 2 mẹ con nhưng không may lại thất bại. Thế nhưng, bà Hằng không thừa nhận khoản nợ này vì chỉ có mỗi ông Hải vay mà bà lại chẳng biết gì về số tiền đó. Như vậy, tranh chấp này sẽ được giải quyết như thế nào?

Hướng giải quyết:

Theo tình huống trên, ta có thể căn cứ theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản như sau:

“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

  Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

1.     Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hai mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2.     Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3.     Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4.     Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5.     Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6.     Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”

Như vậy, trong tình huống trên, nếu khoản nợ 100.000.000 đồng mà ông Hải nợ bà Tâm có giấy tờ, chứng minh rằng khoản vay nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ và chồng mới phải liên đới chịu trách nhiệm về nghĩa vụ trả nợ.

Còn trong trường hợp này, ông Hải bỏ nhà đi 10 năm không tin tức và cũng không hề gửi bất kỳ số tiền nào cho bà Hằng, khoản vay giữa ông Hải và bà Tâm thì bà Hằng không biết; đồng thời khoản vay trên được ông Hải vay để làm ăn cá nhân nên cũng không thuộc 1 trong các mục được quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Thế nên, khoản vay này được xem như là ông Hải vay mượn với mục đích kinh doanh riêng bên ngoài và bà Hằng không có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả khoản vay đó cùng ông Hải.

TRIỂN LUẬT LAW.